Page 156 - Cuon 6
P. 156
PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ VÀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CẦN QUAN TÂM
BKHCN-BTC ngày 17/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công
nghệ và Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định việc định giá kết quả nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ, tài sản trí tuệ sử dụng ngân sách
nhà nước ... Trong đó, một số quy định còn bất cập, mâu thuẫn, một số
vấn đề còn chưa có hướng dẫn cụ thể. Chẳng hạn, theo Chuẩn mực kế
toán số 04, chỉ một số đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ được coi là tài
sản cố định vô hình như sáng chế, quyền tác giả, nhãn hiệu (trong trường
hợp nhãn hiệu đó không phải được tạo ra từ nội bộ DN như nhãn hiệu đó
được mua lại); tuy nhiên, khoản 2, Điều 4, Thông tư 45/2013/TT-BTC
của Bộ Tài chính quy định tất cả các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ
(bao gồm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống
cây trồng) đều được coi là tài sản cố định vô hình và từ đó là cơ sở để
định giá và tính vào giá trị DN . Bên cạnh đó, hiện nay vẫn chưa có quy
định hướng dẫn về định giá tài sản SHTT khi thực hiện góp vốn thành lập
doanh nghiệp hay thực hiện các giao dịch bảo đảm bằng quyền SHTT .
Việc thiếu khung pháp lý thống nhất và hướng dẫn rõ ràng về định
giá tài sản SHTT dẫn đến nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc xác định
giá trị tài sản SHTT, gây khó khăn cho các chủ sở hữu tài sản SHTT trong
việc khai thác giá trị tài sản (như góp vốn, chuyển giao, sử dụng làm tài
sản bảo đảm để tiếp cận vốn sản xuất, kinh doanh...) trong thời gian qua.
Chẳng hạn, trên thực tế, đối với hoạt động cho vay vốn của các tổ chức
tín dụng, “việc cho vay dựa trên tài sản bảo đảm là quyền sở hữu trí tuệ
hầu như chưa được thực hiện do chưa có các quy định hướng dẫn về định
giá một cách cụ thể và phù hợp để các bên liên quan có thể yên tâm sử
dụng tài sản trí tuệ làm tài sản bảo đảm” .
6.3. Vướng mắc, bất cập trong bảo vệ tài sản SHTT của chủ sở hữu
Có thể nói, bảo vệ (thực thi) quyền SHTT được coi là khâu yếu nhất
tại Việt Nam hiện nay. Như đã giới thiệu, phân tích ở trên, việc bảo vệ tài
sản SHTT của chủ sở hữu tại Việt Nam được thực hiện thông qua ba cơ
chế: dân sự, hình sự và hành chính. Việc thực hiện cả ba cơ chế này trong
155