Page 83 - Cuon 6
P. 83
PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ VÀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CẦN QUAN TÂM
grounds) - đánh giá khả năng phân biệt dựa trên khả năng xung đột với
các quyền có trước.
Theo đó, nếu áp dụng thông lệ trên để phân loại các căn cứ đánh giá
khả năng phân biệt của nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam, các dấu hiệu
sau đây sẽ bị coi là không có khả năng phân biệt tự thân, và do đó, không
được bảo hộ như một nhãn hiệu dựa trên “cơ sở tuyệt đối”: 130
- Hình và hình hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc các
ngôn ngữ không thông dụng, trừ trường hợp các dấu hiệu này đã được sử
dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu.
- Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường
của hàng hóa, dịch vụ bằng bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng
rãi, thường xuyên, nhiều người biết đến.
- Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại,
số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các
đặc tính khác mang tính mô tả hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu
đó đã đạt được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước thời
điểm nộp đơn đăng ký nhãn hiệu.
- Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể
kinh doanh.
- Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, trừ trường
hợp dấu hiệu đó đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa
một nhãn hiệu hoặc được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn
hiệu chứng nhận.
Một dấu hiệu sẽ bị coi là không có khả năng bảo hộ dựa trên “cơ sở
tương đối” nếu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với các đối
tượng sau:
130 Điều 74, Luật SHTT.
82