Page 75 - Cuon 2
P. 75
THỰC TIỄN TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ PHÁP LÝ CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở MỘT SỐ BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG,
TỔ CHỨC ĐẠI DIỆN CHO DOANH NGHIỆP HIỆN NAY: KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC VÀ GIẢI PHÁP THÁO GỠ
thay thế bằng Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa).
Việc quy định các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp như trên
là căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện chức năng kinh tế cũng như trách nhiệm triển khai một trong
những hình thức dịch vụ công cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ
và vừa; nó phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và sự phát triển kinh tế - xã hội
của từng giai đoạn và từng địa phương. Tuy nhiên, việc quy định các hình
thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, quan trọng vẫn là phải đáp ứng nhu
cầu của doanh nghiệp. Nếu Nhà nước đưa ra các hình thức hỗ trợ pháp lý
cho doanh nghiệp có, nhưng các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
trên lại không phải là các hình thức hỗ trợ pháp lý mà doanh nghiệp cần thì
các quy định về hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp sẽ không hiệu
quả. Chính vì vậy, tùy thuộc vào giai đoạn lịch sử từ năm 2008 (năm đầu
tiên ban hành Nghị định số 66/2008/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp) đến nay (được thay thế bằng Nghị định số 55/2019/NĐ-CP), các
hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp luôn được điều chỉnh cho phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và điều kiện kinh tế - xã hội
trong từng giai đoạn nhưng dựa trên tổng kết, đánh giá và xác định rõ nhu
cầu cần hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp trong từng giai đoạn.
- Nguồn vốn hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được pháp luật quy
định theo hướng, kinh phí bảo đảm cho hoạt động hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa do ngân sách nhà nước đảm bảo, được bố trí
trong dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước hàng năm trên cơ sở
kế hoạch triển khai hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và
vừa của bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định
của pháp luật về ngân sách nhà nước.
74