Page 121 - Cuon 1
P. 121
PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH ĐIỆN TỬ TRONG BỐI CẢNH DỊCH COVID-19
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ DNNVV CẦN QUAN TÂM
[3] Xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Hợp đồng gia
công số 01- 2018/GC-TD-TC ngày 22/12/2018 được ký kết giữa
Công ty TNHH TTh và Doanh nghiệp tư nhân Tr (tháng 01/2019
chuyển đổi hình thức doanh nghiệp thành Công ty TNHH MTV
XSTMDV Ng). Theo hợp đồng đã ký kết, nguyên đơn gia công cho
bị đơn các mặt hàng quần, áo, váy… Về số lượng, đơn giá sẽ được
thể hiện trên phụ kiện hợp đồng theo từng mã hàng cụ thể. Quá
trình thực hiện hợp đồng, nguyên đơn đã thực hiện gia công cho bị
đơn rất nhiều mã hàng theo hợp đồng đã ký kết. Quá trình thực hiện
hợp đồng nguyên đơn và bị đơn không thực hiện đúng thỏa thuận
trong hợp đồng về việc lập phụ lục hợp đồng cho từng đơn hàng
(mã hàng) gia công cụ thể. Bị đơn đã thanh toán tiền gia công cho
nguyên đơn nhiều đợt nhưng hầu hết đều ghi là tiền ứng chi phí gia
công, không thanh toán cho mã hàng cụ thể nào. Điều 3 của Hợp
đồng quy định: Chứng từ thanh toán bao gồm: 1: Bảng đối chiếu
số lượng; 2: Bảng thanh lý Nguyên phụ liệu; 3: Bảng thanh lý phụ
kiện. Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp các tài liệu chứng cứ
này nhưng nguyên đơn không cung cấp được.
Nguyên đơn cho rằng nội dung email của bị đơn gửi cho nguyên
đơn ngày 21/3/2019 là bản đối chiếu (chốt) công nợ. Xét thấy, nội
dung email có thông tin về số tiền gia công và thời gian thanh toán
mang tính chất thông báo cho nguyên đơn. Sau khi nhận email
nguyên đơn không có sự phản hồi xác nhận. Bị đơn thừa nhận nội
dung email ngày 21/3/2019 là do Công ty Th gửi nhưng không thừa
nhận việc xem nội dung email là bản đối chiếu công nợ giữa hai
bên. Bản đối chiếu công nợ là bản đối chiếu do hai bên đồng ý xác
nhận nên không có căn cứ xác định nội dung email ngày 21/3/2019
là bản đối chiếu công nợ.
120