Page 16 - Cuon 4
P. 16
PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH DỊCH COVID-19:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CẦN QUAN TÂM
Số lượng lao động có trình độ cao (trên đại học) chỉ chiếm tỷ trọng là 0,07%.
5
Số lượng nhà khoa học, chuyên gia làm việc trong các DNNVV chỉ chiếm
0,025% trong tổng số lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp. Thực tế
nảy sinh, môt bộ phận không nhỏ người lao động chuyển dịch từ khu vực nông
nghiệp sang công nghiệp nên ý thức chấp hành các quy định về ATVSLĐ trong
khi làm việc chưa cao, tiềm ẩn nguy cơ cao về mất an toàn lao động. Người
lao động làm việc không theo hợp đồng lao động chiếm đa số trong tổng số
lao động làm việc tại các làng nghề hiện nay, bộ phận này phần lớn chưa được
đào tạo nghề, nhất là chưa huấn luyện, trang bị bảo hộ về ATVSLĐ nên thường
xảy ra nhiều vụ tai nạn lao động. Hiện nay, người lao động tại khu vực này
chưa quan tâm đến việc tham gia bảo hiểm tai nạn lao động dưới hình thức tự
nguyện nên khi xảy ra tai nạn việc chữa trị còn gặp nhiều khó khăn.
Theo quy định của pháp luật và các thông lệ, tiêu chuẩn quốc tế, doanh
nghiệp phải có cán bộ chuyên trách hoặc bán chuyên trách về ATVSLĐ, tuy
nhiên tình trạng chung của các DNNVV là không có hoặc có thể mang tính
hình thức, kiêm nhiệm rất nhiều công việc. Nhiều doanh nghiệp có cán bộ
chuyên trách, bán chuyên trách nhưng lại chưa đủ điều kiện về chuyên môn,
năng lực và coi nhiệm vụ về công tác ATVSLĐ là thứ yếu. Việc này dẫn đến
tình trạng doanh nghiệp không có cán bộ đầu mối để thực hiện xuyên suốt
công tác ATVSLĐ, do đó không chủ động phòng ngừa các yếu tố rủi ro ngay
từ đầu mà chỉ khi nào phát sinh các sự cố, rủi ro thì mới tập trung giải quyết,
khắc phục hậu quả. Cũng từ sự yếu kém của người làm công tác ATVSLĐ nên
tổ chức bộ máy làm công tác ATVSLĐ như Hội đồng ATVSLĐ, người làm
công tác y tế, mạng lưới ATVSV, phân công trách nhiệm, quyền hạn của các bộ
phận, cá nhân trong doanh nghiệp không được thực hiện hoặc thực hiện không
hiệu quả trong việc đảm bảo ATVSLĐ cho doanh nghiệp.
Thứ hai, về cơ sở hạ tầng:
Hiện nay, khoảng 80 - 90% máy móc và công nghệ sử dụng trong các
doanh nghiệp của Việt Nam là nhập khẩu. Phần lớn doanh nghiệp công nghiệp
Việt Nam vẫn đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế
5 Theo báo cáo thống kê của Hiệp hội DNNVV Việt Nam.
15